Thứ Bảy, 11 tháng 6, 2016

Nephrology (Phần I) - Acute Renal Failure (ARF)



Image result for acute renal failure









Suy thận cấp – Acute Renal Failure (ARF)


Định nghĩa: Suy thận cấp, đôi khi còn được biết với cái tên Tổn thương thận cấp (Acute Kidney Injury - AKI), là tình trạng tăng nhanh ure máu (Blood Urea Nitrogen - BUN) hoặc creatinine trong khoảng thời gian từ vài tiếng đến vài ngày. Hai thuật ngữ ARF và AKI có thể thay thế lẫn nhau. Không có định nghĩa chính xác tuyệt đối về thời gian để mô tả nó như từ cấp tính (Acute). ARF có thể xảy ra trong thời gian ngắn vài tiếng, như trường hợp tiêu cơ vân (Rhabdomyolysis) hoặc suy thận do chất cản quang (Contrast-Induced renal failure). Hoặc có thể xảy ra trong vài tuần, như trong trường hợp độc tố aminoglycoside (Aminoglycoside toxicity) hoặc viêm cầu thận sau nhiễm tụ cầu (Poststreptococcal glomerulonephritis).


Chúng ta có một số thuật ngữ liên quan đến suy thận (Renal Failure - RF) cần chú ý, chúng mang ý nghĩa cho sự tăng creatinine và giảm chức năng thận hoặc giảm tỉ lệ lọc cầu thận.
“Renal insufficiency” có nghĩa là suy thận, nhưng chưa tiến triển đến mức cần thiết đến lọc thận. Thuật ngữ ni tơ máu (Azotemia) có thể dùng thay thế, và để nói lên mức độ của “Renal insufficiency”. Azotemia là tình trạng tích tụ nhóm ni tơ hoặc ni tơ trong máu.


Ure máu (Uremia) cũng là tình trạng suy thận nhưng ở mức độ nghiêm trọng, và cần thiết lọc thận. Uremia thì nghiêm trọng hơn Azotemia. Với uremia còn kèm theo toán hóa nặng, thay đổi tình trạng tâm thần, kali máu cao, và quá tải dịch, cũng như thiếu máu, can xi máu thấp, và có thể viêm màng ngoài tim. Bệnh nhân cũng có thể bị xuất huyết tạng. Uremia có thể thay thế cho tính nghiêm trọng cho thuật ngữ bệnh thận giai đoạn cuối (End-stage renal disease). Cả hai đều nói lên tình trạng rối loạn chức năng thận nghiêm trọng có thể đe dọa tính mạng bệnh nhân và cần thiết lọc thận. Uremia không có nghĩa là bệnh thận mạn (Chronic renal failure). Mặc dù, hầu hết bệnh nhận xuất hiện tình trạng ure máu sau vài năm có tình trạng renal insufficiency như bệnh nhân tiểu đường hoặc cao huyết áp, nhưng cũng có thể tiến triển đến tình trạng Uremia chỉ từ 1-2 tuần nếu bệnh nhân có bệnh nặng như hội chứng ly giải khối u (Tumor lysis syndrome) hoặc ly giải cơ (Rhabomyolysis).


ARF và AKI được phân loại thành trước-tại-sau thận (Prerenal-Intrarenal-Postrenal) để nói lên nhóm nguyên nhân gây suy thận. Ni tơ máu trước thân (Prerenal Azotemia) là tình trạng tưới máu thận bị giảm. Ni tơ máu sau thận (Postrenal Azotemia) là tình trạng giảm lưu lượng dịch lọc trong ống thận hoặc là dòng nước tiểu. Với Prerenal Azotemia và Postrenal Azotemia thì thận không bị tổn thương. Do đó nếu thận của những bệnh nhân này được dùng để ghép cho người khác thì vẫn hoạt động bình thường. Còn Intrarenal Azotemia là tình trạng có tổn thương ở cầu thận hoặc ống thận.


Cận lâm sàng:
BUN tăng bất thường trong tất cả thể suy thận. Nó có thể dương giả, thậm chí ngay khi chức năng thận bình thường, như trong chế độ ăn giàu đạm hoặc ở bệnh nhân xuất huyết tiêu hóa.  Cũng có thể do tăng dị hóa. BUN có nguồn gốc sản phẩm bỏ đi trong chuyển hóa protein, máu trong đường tiêu hóa ở bệnh nhân xuất huyết tiêu hóa là nguồn đạm lớn tương tự như chế độ ăn giàu đạm.
BUN giảm sau khi bệnh nhân được lọc thận. BUN có thể âm giả khi có bệnh lý về gan, chế độ ăn thiếu đạm và nghèo dinh dưỡng, hoặc SIADH. Nồng độ BUN phản ánh mức độ suy thận, càng cao thì chức năng thận càng giảm.


Creatinine dùng để đánh giá chức năng thận. Độ thanh thải creatinine gần xấp xỉ tỉ lệ lọc cầu thận (Glomerular filtration rate GFR) mà không cần phải sử dụng chất thử như inulin. Inulin là chất ngoại sinh. Trong khi creatinine là chất nội sinh, là sản phẩm chuyển hóa của cơ vân. Độ thanh thải creatinine thì hơi cao hơn so với GFR vì ngoài creatine lọc qua cầu thận còn có thêm lượng nhỏ creatinine tiết ở ống thận. Creatine có thể âm giả nếu giảm khối cơ. Do đó mà độ thanh thải creatinine được hiệu chỉnh theo cân nặng. Khối cơ càng lớn thì càng nhiều creatinine hơn. Một VĐV cử tạ 100 kg sẽ sinh ra nhiều creatinine hơn một nhân viên văn phòng 50 kg. vậy ở những VĐV cử ta, nồng đô creatinine cao không nhất thiết là do giảm chức năng thận nặng.
Creatinine cần một khoảng thời gian để tăng. Thậm chí nếu bệnh nhân vô niệu, thì creatinine chỉ tăng ở mức 0.5 đến 1.0 đơn vị trên ngày.  Tăng càng nhanh khi khối cơ càng lớn. Do đó, nếu bệnh nhân tổn thương thận và creatinine tăng từ 1-3 đơn vị trong 2 ngày, thì có thể tư vong hay chức năng thận không còn.


Nguồn
Nephrology, Internal Medicine, USMLE Step 2 CK, Kaplan.

"Chiến thắng được đếm bằng số mạng người cứu được" Grey's Anatomy.